Khái niệm Cộng_hòa_lập_hiến

Khái niệm về cộng hòa lập hiến bắt nguồn từ công trình triết học "Chính trị" của Aristotle và khái niệm của ông về một chính thể khả dĩ thứ năm gọi là "polity". Ông đối chiếu "polity" của chính thể cộng hòa với chính trị dân chủquả đầu chế trong sách số 3, chương thứ sáu của tác phẩm "Chính trị".

Quả đầu chế (Oligarchies) chuộng các thành viên giàu có của xã hội và có vai trò trong các vị trí lãnh đạo được bầu. Chính trị dân chủ chuộng các thành viên trung lưu và nghèo khó mà thường thường chiếm đa số, và có vai trò như các đại hội đồng lập pháp mở rộng cho tất cả các công dân trong tuổi bầu cử. Aristotle nghĩ rằng nếu được quan tâm và sử dụng đúng thì hình thức chính phủ "polity" sẽ là chính phủ lý tưởng nhất như có thể vì nó có thể nhận ý kiến từ các thành viên cộng đồng thuộc mọi tầng lớp và cai trị công bằng theo lợi ích của toàn cộng đồng chớ không phải chỉ riêng cho nhóm đa số.

"Polity", theo nghĩa diễn tả thông thường, có thể ám chỉ đến hệ thống tổ chức chính trị được một nhóm người đặc biệt nào đó sử dụng, ví dụ như một bộ lạc, một quốc gia thành phố, một đế quốc, một tập đoàn,... Trong nghĩa thứ hai đặc biệt hơn của Aristotle về từ này là ông viễn tượng một "polity" mà trong đó có sự kết hợp những điều theo ông nghĩ là các đặc điểm tốt nhất của cả quả đầu chế (cai trị bởi người giàu có) và chính trị dân chủ (cai trị bởi người nghèo). Chính phủ theo hình thức "polity" này sẽ được nhiều người quản trị mà có lợi ích nhất như có thể cho toàn thể mọi người.

Các cộng hòa lập hiến là một nỗ lực có chủ ý nhằm giảm bớt mối họa đa số thống trị, cho nên có thể bảo vệ được các cá nhân bất đồng và những nhóm thiểu số khỏi họa chuyên chế của nhóm đa số bằng cách áp đặt kiểm soát trên quyền lực của nhóm đa số.[1] Quyền lực của nhóm đa số bị kiểm soát qua việc giới hạn quyền lực của nó bằng cách bầu lên những đại diện cầm quyền trong giới hạn của luật hiến định bao quát hơn là qua bầu cử để có được quyền tự lập nên pháp luật. John Adams định nghĩa một cộng hòa lập hiến là "một chính phủ với luật pháp, và không phải là chính phủ với những con người."[2] Cũng như vậy, quyền lực của các quan chức chính phủ bị kiểm soát bằng cách không để một cá nhân nào giữ hết các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp. Thay vào đó, các quyền lực này được phân chia thành các ngành riêng biệt mà phục vụ như là một hệ thống kiểm soát và quân bình đối trọng với nhau. Một cộng hòa lập hiến được tạo hình để "không một ai hay nhóm nào [có thể] vượt lên giữ quyền tuyệt đối."[3]

Một cộng hòa lập hiến là một hình thức dân chủ tự do, nhưng không phải tất cả những nền dân chủ tự do đều là cộng hòa lập pháp. Ví dụ, mặc dù người đứng đầu quốc gia không được bầu lên trong một chế độ quân chủ, nó vẫn có thể là một chế độ dân chủ tự do nếu có một quốc hội với những dân biểu được bầu lên điều hành quốc gia theo luật hiến định bảo vệ những quyền cá nhân (được gọi là một nền quân chủ dân chủ lập hiến). Cũng như vậy, một nền dân chủ đại nghị có thể là hoặc không thể là một cộng hòa lập hiến. Ví dụ, "Hoa Kỳ dựa vào nền dân chủ đại nghị, nhưng hệ thống chính phủ của Hoa Kỳ thì phức tạp hơn nhiều. Hoa Kỳ không phải là một nền dân chủ đại nghị đơn giản, mà là một cộng hòa lập hiến mà trong đó khối đa số cầm quyền bị chi phối bởi các quyền của thiểu số được luật pháp bảo vệ."[4]